Vai trò: Nhân vật phụ.
Cách gọi khác: Công
chúa Iriha.
Chủng tộc: Con người.
Giới tính: Nữ.
Tuổi tác: 22.
Năm sinh: 5 – 670.
Chiều cao: 170 cm.
Cân nặng: 56 kg.
Ngoại hình: Hình mẫu trên - Made with Picrew.
Màu tóc: Màu xanh lục đậm.
Màu mắt: Màu xanh lục đậm.
Miêu tả trong truyện: “Một
thiếu nữ tóc xanh được buộc cao hai bên…”
Giọng nói: Kiên định, rõ
ràng, giòn giã.
Nơi sinh: Tulenkka.
Quốc tịch: Tulenkka.
Lai lịch, thân phận: Công
chúa của Tulenkka.
Nghề nghiệp: Kỵ binh.
Nơi ở: Tulenkka.
Trạng thái: Còn sống.
Xuất hiện lần đầu: Volume
3, Memoir 14.
Tính cách: Thẳng thắn,
dũng cảm. Ghét người háo sắc, đa tình. Có thù với Plavento và đặc biệt với
Korgis.
Quá khứ: Không được kể nhiều về quá khứ của Iriha, biết rằng cô quen
Nadera từ trước. Iriha cũng là người phát hiện ra Akasha gần đây của Tulenkka.
Cốt truyện:
Plavento Arc
Trong cuộc họp bàn chiến lược trước trận chiến, Iriha đã thề
sẽ giết chết Korgis. Sau đó cô nhận ra Nadera đến qua magia. Nhóm Frorifel đã
trao đổi với Iriha, với việc cô cho họ xem trang Akasha mình đang giữ, họ sẽ
giúp cô lập kế hoạch để tiếp đánh Plavento.
Trong trận chiến, Iriha chủ yếu giao chiến với Lusune. Với sự
trở mặt bất ngờ của Korgis nên cô có thể lật ngược thế cờ. Khi này, Iriha mới ngỡ
ngàng nhận ra Korgis và cha mình vốn liên thủ.
Sau quyết định làm chư hầu cho Plavento của Tulenkka, Iriha
đại diện có mặt trong cuộc họp giữa Frorifel với Korgis và Nadera. Lúc đi dạo
ngự hoa viên, trong lúc bực dọc lại vô tình gặp Korgis. Qua sự hỏi han ngắn ngủi
của hắn về chuyện giữa cô và Nadera, Iriha cảm thấy hiểu thêm một chút về con
nguời này.
Các mối quan hệ:
Gia
đình:
Vương
của tộc Tulenkka – Cha.
Khác:
Li Nadera – Bằng hữu: Từng là một trong những đối tượng tán tỉnh của Nadera và luôn đá hắn không thương tiếc.
Kẻ thù: Sunigtaina, Plavento (Trước đây).
Kẻ thù: Sunigtaina, Plavento (Trước đây).
Năng lực chiến đấu:
- Cảm quan.
- Ma thuật tự
nhiên: Ma thuật gió.
- Phước lành của
Bạch Long: Bạch Long Vĩ.
+ Lưỡi kiếm gió. Lần
đầu sử dụng ở Memoir 15.
Vũ khí: Roi.
Chỉ số:
Magia: 7/10.
Thể lực: 8/10.
Kỹ thuật: 9/10
Tinh thần: 9/10.
Khả năng lãnh đạo: 9/10.
Chiến thuật: 7/10.
Khả năng hợp tác: 9/10.
Ngoại hình: 9/10.
Trivia:
Thói quen: Luôn mang theo một bình sữa ngựa bên người, mỗi lần mệt mỏi là tu ngay.
Sở thích: Cưỡi ngựa trên thảo nguyên.
Sở ghét: Đàn ông phong lưu ẻo lã, những người lòng dạ thâm độc tham lam.
Sở trường: Thuần phục thú hoang.
Sở đoản: Nữ công gia chánh.
Tài lẻ: Đuổi bắt.
Điểm yếu: Luôn đặt Tulenkka lên hàng đầu.
Đồ ăn/Thức uống yêu thích: Thịt hầm, sữa ngựa.
Động vật yêu thích: Đại bàng.
Mùi hương yêu thích: Mùi các món hầm.
Ước mơ: Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ Tulenkka.
Nuối tiếc: Không thể ngăn được việc Tulenkka thành chư hầu của Plavento.
Điều cô muốn nhất lúc này: Sớm thành gia lập thất với ý trung nhân.
Điều khiến cô phiền lòng: Bị cha mình lừa một vố đau.
Điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời cô: Được Bạch Long ban phước.
Điều đáng xấu hổ nhất trong cuộc đời cô: Trước đây từng bị gán ghép với Nadera.
Điều đáng tự hào nhất trong cuộc đời cô: Bảo vệ được sự ấm no hạnh phúc của tộc nhân.
Điều cô thích ở bản thân: Tính cách kiên cường, cương trực.
Điều cô ghét ở bản thân: Thiếu nhạy bén để nhận ra những âm mưu ngầm.
Điểm thu hút: Dáng vẻ oai phong khi đánh trận khiến cả trai gái trong tộc điêu đứng.
Gu người yêu: Không háo sắc, đa tình. Dũng mãnh, có thể làm chỗ dựa tinh thần.
Ý nghĩa tên: Đây là một cái tên mình đặt mà không có ý nghĩa đặc biệt.
Quotes:
“Ta
thề dưới danh nghĩa thần Ali Zenbach sẽ lấy đầu tên Li Korgis!” – Với các tướng
lĩnh của Tulenkka.
(Volume
3, Memoir 14)
“Hãy
giúp ta bảo vệ Tulenkka và tìm ra sự thật.” – Với Frorifel.
(Volume
3, Memoir 14)
Nhận xét
Đăng nhận xét